Nhằm đưa ra các giải pháp sửa chữa bảo trì, ngành đường bộ đã ứng dụng nhiều công nghệ mới. Đặc biệt, khi thực hiện chuyển đổi số, hệ thống quản lý tài sản đường quốc lộ sẽ được số hóa thành hệ cơ sở dữ liệu dùng chung giúp quản lý dễ dàng, hiệu quả hơn.
Theo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Việt Nam hiện có 128 quốc lộ với 4.028 cầu lớn nhỏ trên đường. Tổng chiều dài của các tuyến quốc lộ là 17.530 km. Để bảo trì hệ thống hạ tầng này, hàng năm ngân sách phải bỏ ra hàng chục nghìn tỷ đồng để duy tu, bảo dưỡng.
Lãnh đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam chia sẻ, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã hợp tác với các nhà khoa học, doanh nghiệp trong các lĩnh vực vật liệu xây dựng, công nghệ thi công, nghiên cứu, chế tạo, cung ứng và chuyển giao công nghệ để bảo trì đường bộ như: máy cắt cỏ, máy cắt cây trên mái taluy, xe kiểm tra cầu tự hành, máy tái chế bê tông nhựa nóng, máy đun nhựa di động, máy sơn đường tự hành, máy đếm xe tự động...
Việc từng bước áp dụng thiết bị, công nghệ mới đem lại kết quả khả quan trong lĩnh vực quản lý, bảo trì đường bộ; tăng hiệu quả, chất lượng công việc, giảm giá thành do tiết kiệm chi phí nhân công.
“Trong bối cảnh tiền ngân sách chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu cho duy tu, bảo dưỡng toàn bộ hệ thống quốc lộ trên toàn quốc thì việc ứng dụng công nghệ mới giúp giảm giá thành, đặc biệt là tăng tuổi thọ công trình”, đại điện lãnh đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam cho hay.
Các chuyên gia giao thông đánh giá, so với các nước phát triển, lĩnh vực đường bộ ở Việt Nam còn khoảng cách khá lớn trong ứng dụng các yếu tố cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bảo trì đường bộ từ chỗ lạc hậu, thủ công đang có bước chuyển mạnh mẽ. Ngành đường bộ đã chủ động tiếp nhận và có những bước đi phù hợp để từng bước nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng các nguồn lực trong quản lý, vận hành khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
Dẫn chứng việc này là Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã đưa vào ứng dụng phần mềm quản lý tài sản đường bộ. Tại hiện trường, công nhân tuần đường chỉ cần chụp ảnh, quay video gửi lên hệ thống và sau 1 giờ đã có chỉ đạo khắc phục. Phần mềm cũng cập nhật, tạo lập bản đồ số giao thông đầy đủ, chính xác, tự động lấy lại vị trí lý trình, giúp lãnh đạo kiểm tra, giao nhiệm vụ sửa chữa, kịp thời.
Ông Trần Hưng Hà, Cục trưởng Cục Quản lý đường bộ I cho rằng, trước đây, việc trao đổi thông tin giữa các bộ phận từ khâu kiểm tra thực địa, lập phiếu yêu cầu công việc đến giao việc cho đơn vị sửa chữa cũng như kiểm tra sau sửa chữa chủ yếu theo phương pháp truyền thống, dẫn đến chất lượng bảo trì đường bộ chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.
“Khi áp dụng phần mềm, tính tương tác giữa người trực tiếp tại hiện trường là tuần đường, nhà thầu quản lý tuyến đường và chủ đầu tư được nhanh chóng. Qua vài thao tác, từ đơn vị bảo trì đến cơ quan quản lý đều biết sự việc và đưa ra hướng xử lý, cũng như báo cáo kết quả triển khai”, ông Trần Hưng Hà chia sẻ.
Sở Giao thông Vận tải tỉnh Lạng Sơn hiện quản lý gần 1.000 km đường của thành phố và quốc lộ ủy thác, đại diện Sở này chia sẻ: “Chi phí cho công nghệ này không lớn nhưng mang lại hiệu quả cao, hư hỏng được sửa chữa, phòng ngừa kịp thời. Phần mềm cũng giúp quản lý được lao động, bởi tuần đường phải đi tuyến mới có hình ảnh chuyển lên hệ thống để báo cáo, tránh tình trạng không đi nhưng vẫn báo dẫn đến số liệu không trung thực.
Là đơn vị chịu trách nhiệm tham mưu cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ vảo quản lý hệ thống quốc lộ, ông Tô Nam Toàn, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ - Môi trường và Hợp tác quốc tế (Tổng cục Đường bộ Việt Nam) cho biết, qua hệ thống phần mềm quản lý tài sản đường bộ, từng lớp dữ liệu của các đơn vị quản lý đường đã được “lắp ghép” lên bản đồ số, qua đó cơ quan quản lý nhanh chóng đánh giá được bức tranh giao thông của cả nước.
“Đây là phần mềm có tính năng giao việc, kiểm soát tiến độ, chất lượng công việc bảo trì đường bộ, hỗ trợ thu thập thông tin, nắm bắt kịp thời các sự cố đột xuất xảy ra để đưa ra phương án xử lý kịp thời. Hệ thống giống như sổ điện tử, hồ sơ công trình sẽ được thay bằng hồ sơ điện tử”, ông Toàn nhấn mạnh.
Đặc biệt, hệ thống phần mềm quản lý tài sản đường bộ cũng sẽ kết nối với Chính phủ điện tử, cung cấp dữ liệu tổng hợp như tải trọng khai thác, kết cấu mặt đường, tốc độ khai thác... lên trục dữ liệu chung của Bộ Giao thông vận tải và kết nối với cơ sở dữ liệu chung của Chính phủ. Người dân, doanh nghiệp có thể vào khai thác dữ liệu tại đây. Hệ thống cũng hỗ trợ cung cấp các dịch vụ công như cấp giấy phép thi công, cấp giấy phép chở quá khổ, quá tải…
Cũng theo ông Toàn, hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý tài sản đường bộ dùng kỹ thuật số để thu thập và tích hợp quản lý 32 trường dữ liệu tài sản có trên đường bộ như: tình trạng mặt đường, độ gồ ghề mặt đường, rãnh, cọc tiêu, biển báo, cầu, cống... Hiện các tài sản trên đường cơ bản đã được định vị trên nền bản đồ số, quản lý được tọa độ từng loại.
“Từ dữ liệu chi tiết đó sẽ có kế hoạch bảo trì cụ thể. Ví dụ như gối cao su cầu 20 năm phải thay, hệ thống cơ sở dữ liệu sẽ tổng hợp sang năm sau có bao nhiêu gối cầu trên hệ thống quốc lộ đủ thời hạn phải thay để đề xuất trong kế hoạch”, ông Toàn nói.
Ông Lê Hồng Điệp, Vụ trưởng Vụ Quản lý bảo trì đường bộ (Tổng cục Đường bộ Việt Nam) cho hay, trước đây thủ tục để sửa chữa định kỳ mất cả tháng nên khó ngăn chặn hư hỏng kịp thời, khối lượng phát sinh lớn, tốn kém kinh phí. Việc cập nhật vào hệ thống dữ liệu sẽ theo dõi được lịch sử tình trạng cầu đường, biết được hư hỏng có xứng đáng phải sửa chữa hay đường bị hư hỏng nhưng không có tiền sửa chữa.
“Các đơn vị xử lý công việc trên tuyến được cập nhật lên hệ thống và coi như đã báo cáo. Bằng điện thoại thông minh, người lãnh đạo vào hệ thống dữ liệu sẽ thấy được hệ thống đường bộ cả nước ngày hôm đó có bao nhiêu sự cố được phát hiện và tình trạng giải quyết của các đơn vị. Chỉ đạo xử lý sẽ được đưa ra kịp thời mà không cần báo cáo”, ông Điệp dẫn chính.
Lấy ví dụ như đợt bão lũ vừa qua trên địa bàn các tỉnh miền Trung, ông Điệp phân tích, thay vì phải gọi điện thoại hay đến tận hiện trường, qua hệ thống, lãnh đạo Tổng cục sẽ thấy được các tình huống hư hỏng, sạt lở hay tắc đường và cách xử lý của các đơn vị. Nếu thấy việc chỉ đạo xử lý tình huống chưa hợp lý hay phối hợp chưa tốt sẽ có điều chỉnh kịp thời.
“Hệ thống hỗ trợ cho việc lập kế hoạch bảo trì đường bộ, biết được tình trạng hư hỏng để dự trù ngân sách. Quan trọng nhất là giúp minh bạch hóa việc lập kế hoạch bảo trì. Hơn nữa, phần mềm cũng thay được việc lập các đoàn “rồng rắn” đi kiểm tra lập kế hoạch bảo trì hàng tháng trời, tiết kiệm được nhiều chi phí, công khai minh bạch, chứng minh được tình trạng bảo trì so với nguồn vốn được cấp”, ông Điệp nói.
Lãnh đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam cho rằng, đi đôi với các giải pháp ứng dụng công nghệ, vật liệu mới, nâng cao chất lượng, kéo dài tuổi thọ công trình, hiệu quả đồng vốn, với phần mềm quản lý tài sản đường bộ hiện đại sẽ góp phần nâng cao kiểm tra, giám sát, chất lượng bảo trì đường bộ và xử lý vi phạm.
Đặc biệt, việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong bảo trì đường bộ sẽ có nhiều thuận lợi khi Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 877/2022/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Xây dựng và quản lý khai thác, bảo trì hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025 của Đề án đề ra là hoàn thành 100% chuyển đổi số các nghiệp vụ trong xây dựng và quản lý, bảo trì của các đơn vị thuộc Bộ Giao thông vận tải; hình thành được cơ sở dữ liệu hiện đại, kết nối và chia sẻ giữa các lĩnh vực giao thông Vận tải, giữa Trung ương và địa phương.
Link nội dung: https://vsta.org.vn/dua-cong-nghe-40-vao-bao-tri-ha-tang-duong-bo-22475.html