Gia tăng tỷ lệ nội địa hóa ngành cơ khí nhờ ứng dụng khoa học và công nghệ

Trong giai đoạn 2016 – 2020, tốc tăng trưởng sản xuất công nghiệp liên tục phát triển, chỉ số sản xuất công nghiệp bình quân toàn ngành tăng 8,1%, ngành công nghiệp chế biến chế tạo liên tục phát triển và trở thành ngành có tỷ trọng cao nhất trong các ngành công nghiệp vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Kết quả đáng ghi nhận đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp ngành cơ khí.

Giai đoạn 2016-2020 nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi sau những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế. Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam đạt 5,99% và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới.

Trong giai đoạn này, sản xuất công nghiệp liên tục phát triển, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) bình quân toàn ngành tăng 8,1%, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (7,3%), ngành công nghiệp chế biến chế tạo liên tục phát triển và trở thành ngành có tỷ trọng cao nhất trong các ngành công nghiệp vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có sự đóng góp lớn của các doanh nghiệp trong ngành Cơ khí.

Làm chủ thiết kế, chế tạo nhiều sản phẩm

Với khoảng 30.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động, doanh thu toàn ngành đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng và tạo việc làm cho trên 1,2 triệu lao động, ngành Cơ khí đã bước đầu hình thành được một số doanh nghiệp có tiềm năng phát triển ngang tầm khu vực cũng như đã manh nha hình thành mô hình cụm ngành (cluster) về ngành cơ khí chế tạo (như Khu phức hợp cơ khí Chu Lai – Quảng Nam, Tổ hợp sản xuất ô tô Vinfast...). Đặc biệt, trong giai đoạn này chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của ngành Cơ khí khi các doanh nghiệp trong nước đủ năng lực và thực hiện tổng thầu thành công nhiều công trình lớn với tỷ lệ nội địa hóa cao, trong các lĩnh vực như: Thiết bị toàn bộ cho các công trình lớn, các công trình trọng điểm điện, thép, xi măng, alumin, khai thác và chế biến khoáng sản, đường, chế biến mủ cao su…; Chế tạo thiết bị cơ khí thuỷ công của các nhà máy thủy điện lớn, nhỏ.

screenshot-46-1560d-1666890907.png
Thiết bị nhuộm màu và xử lý hóa chất trong hệ thống dây chuyền sản xuất chế biến ngô giống quy mô công nghiệp do Viện Nghiên cứu, Thiết kế, Chế tạo máy nông nghiệp nghiên cứu chế tạo

.

Nhiều thiết bị cơ khí thuỷ công có tổng trọng lượng lên tới hàng chục ngàn tấn đều được các doanh nghiệp trong nước làm chủ công nghệ, chất lượng đáp ứng yêu cầu thiết kế; Hình thành ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô với khoảng gần 40 doanh nghiệp đạt tổng công suất lắp ráp thiết kế hơn 680.000 xe/năm. Các chủng loại xe tải nhẹ dưới 7 tấn, xe khách từ 25 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đạt tỷ lệ nội địa hóa cao; Sản xuất xe gắn máy với những tiến bộ vượt bậc, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước với tỷ lệ nội địa hoá các loại xe đạt khoảng 85 - 95%, có nhiều sản phẩm, linh kiện phụ tùng xuất khẩu ổn định; Thiết kế, chế tạo các loại máy biến áp phục vụ cho nhà máy điện, hệ thống truyền tải; sản xuất được các loại cáp điện, cáp quang phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, thiết kế, chế tạo được tủ điện các loại. Tiếp nối thành công của máy biến áp 220kV, máy biến áp 500kV sản xuất trong nước đã được đưa vào vận hành, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên trong các quốc gia ở Đông Nam Á chế tạo được máy biến áp 500kV. Đặc biệt, ngày 13/9/2019, Tổng Công ty Thiết bị điện Đông Anh đã xuất xưởng Máy biến áp nguồn ba pha 500kV-467MVA đầu tiên tại Việt Nam. Rất ít nước trên thế giới có công nghệ chế tạo máy biến áp nguồn 3 pha điện áp siêu cao áp công suất lớn.

q-ebe7e-1666890927.jpg
Toàn cảnh Nhà máy Điện mặt trời nổi Đa Mi

Ngành Cơ khí phục vụ nông nghiệp, khai thác và chế biến than, khoáng sản đều có những tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt ngành cơ khí Dầu khí lần đầu tiên đã chế tạo thành công và đưa vào hoạt động giàn khoan tự nâng, thay thế sản phẩm nhập khẩu. Giàn khoan tự nâng 400ft-Tam Đảo 05 có khả năng hoạt động tới độ sâu 400ft (tương đương 120m), chiều sâu khoan có thể lên đến 9.000m, giải quyết được nhiều vấn đề về khoa học và công nghệ còn tồn tại đối với giàn khoan tự nâng nhằm tiến tới mục tiêu làm chủ hoàn toàn công tác thiết kế, phát triển và hoán cải, thi công, chế tạo, hạ thủy tất cả các loại giàn khoan tự nâng phục vụ phát triển các loại giàn khoan dầu khí di động khác. Trong dự án Giàn khoan Tam Đảo 05, tỷ lệ nội địa hóa đạt 35% với một số thiết bị quan trọng được thiết kế, chế tạo trong nước như cụm thiết bị tháp khoan, chân giàn khoan và hệ thống tủ bảng điện. Đây là tiền đề hướng tới các sản phẩm giàn khoan bán chìm và các loại giàn/tàu khoan di động khác trong giai đoạn tiếp theo. Việc triển khai nghiên cứu về thiết kế, công nghệ chế tạo, đóng mới, nâng cấp, hoán cải giàn khoan tự nâng không chỉ đáp ứng nhu cầu của đất nước mà hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển chung của khu vực và thế giới, đồng thời là hướng chiến lược hết sức quan trọng có ý nghĩa về an ninh quốc phòng, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển Đông.

Cùng với các cơ chế, chính sách được ban hành nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí, khoa học và công nghệ đã góp phần tạo ra những chuyển biến của ngành khi tác động vào tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, từ làm chủ thiết kế, công nghệ chế tạo đến hoàn thiện sản phẩm… giúp các doanh nghiệp cơ khí cải tiến năng suất, chất lượng và hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm góp phần chung cho sự tăng trưởng của ngành chế biến chế tạo và tăng trưởng của toàn nền kinh tế.

Với phương châm khoa học và công nghệ là động lực chính thúc đẩy phát triển, doanh nghiệp là trọng tâm của hoạt động khoa học và công nghệ, trong nhiều năm qua, Bộ Công Thương đã triển khai nhiều nhiệm vụ khoa học và công nghệ hỗ trợ các doanh nghiệp cơ khí trong nước nâng cao tiềm lực, đổi mới công nghệ, làm chủ thiết kế, công nghệ chế tạo các sản phẩm cơ khí, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm.

Đa số các nhiệm vụ đều bắt nguồn từ thực tế tại các doanh nghiệp sản xuất thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Các công trình nghiên cứu bao gồm từ thiết kế mới, thiết kế cải tiến, làm chủ bí quyết thiết kế chế tạo các dây chuyền thiết bị, chế tạo nội địa hóa thiết bị, phụ tùng, cho đến phục hồi sửa chữa các thiết bị, phụ tùng máy móc được triển khai áp dụng đã đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được áp dụng có hiệu quả vào thực tế và được đánh giá cao, đặc biệt là kết quả nghiên cứu của các Viện Nghiên cứu Cơ khí (NARIME), Công ty Cổ phần Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI), Viện Nghiên cứu Thiết kế Chế tạo máy nông nghiệp (RIAM). Nhiều công trình đã nhận được Giải thưởng Sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam (VIFOTEC).

Phát triển sản xuất cơ khí tự động hóa tích hợp với các công nghệ cao

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ song phải nhìn nhận thực tế, năng lực và trình độ ngành Cơ khí chưa theo kịp với thế giới. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng đến hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, chưa coi trọng đầu tư cho việc đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, nhân lực khoa học và công nghệ trong công nghiệp cơ khí còn thiếu hụt, môi trường chưa đủ hấp dẫn và khuyến khích đội ngũ trí thức có trình độ cao trong lĩnh vực cơ khí trong và ngoài nước tham gia hoạt động.

screenshot-47-5863c-1666890957.png
 

Để tiếp tục thúc đẩy ngành công nghiệp Cơ khí phát triển, xứng đáng với tầm vóc và vai trò trong nền kinh tế, trong thời gian tới, các hoạt động về khoa học và công nghệ ngành Cơ khí cần tập trung vào một số nội dung sau:

- Triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ưu tiên triển khai các nhiệm vụ theo chuỗi giá trị, tập trung nghiên cứu, ứng dụng và làm chủ các công nghệ cao, công nghệ ưu tiên phát triển, công nghệ khuyến khích chuyển giao thuộc ngành cơ khí như công nghệ nhiệt luyện; công nghệ chế tạo khuôn mẫu chính xác cao, máy công cụ, máy nông nghiệp, phụ tùng, động cơ ô tô và phụ tùng cơ khí, giao thông đường sắt, thép chế tạo, cơ khí chính xác và tự động hóa; công nghệ chế biến và bảo quản.

- Xây dựng và tiển khai thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp cơ khí phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhu cầu và xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tăng cường kết nối giữa nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp trong nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức khoa học đẩy mạnh nghiên cứu, đầu tư tiềm lực khoa học và công nghệ để nghiên cứu tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiến tới làm chủ việc thiết kế, chế tạo các dây chuyền thiết bị toàn bộ cho các ngành kinh tế.

- Rà soát, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho các sản phẩm cơ khí, nâng cao tỷ lệ hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi sản xuất, chế tạo trong các ngành công nghiệp nói chung và ngành Cơ khí nói riêng là sản xuất thông minh với nền tảng tự động hóa, số hóa. Trong bối cảnh đó, để có thể vượt qua được những khó khăn nội tại, tận dụng những cơ hội để chiếm lĩnh dần thị trường trong nước, hướng tới xuất khẩu, việc tiếp cận nhanh, đầy đủ, toàn diện các xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực, cũng như xây dựng các chiến lược, giải pháp cụ thể để phát triển sản xuất cơ khí tự động hóa tích hợp với các công nghệ cao như công nghệ thông tin, chuỗi cung ứng thông minh, sử dụng hệ thống quản trị trí tuệ mới, tối ưu hóa mô hình kinh doanh, là yếu tố quyết định cho sự phát triển của ngành Cơ khí.

Với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của một người đi sau trong khu vực khi khoa học và công nghệ, vốn đầu tư cùng với tri thức kinh doanh đang dịch chuyển mạnh mẽ, ngành Cơ khí Việt Nam trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua cùng với việc nhận thức rõ những thách thức, tận dụng tối đa mọi cơ hội đầu tư phát triển trong bối cảnh mới sẽ đạt thêm nhiều thành tựu, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nền công nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại, nâng cao vị thế đất nước trong khu vực và quốc tế.

Link nội dung: https://vsta.org.vn/gia-tang-ty-le-noi-dia-hoa-nganh-co-khi-nho-ung-dung-khoa-hoc-va-cong-nghe-22480.html